-
TRẦN HÀ NAM
(Viết nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh cố thi sĩ Yến Lan)
Tôi còn nhớ vẹn nguyên cảm giác khi gặp thi sĩ Yến Lan lần đầu tiên tại Câu lạc bộ Văn học Xuân Diệu, lúc ấy không thể không nhớ đến hình ảnh ông lái đò trong bài thơ để đời BẾN MY LĂNG của ông! Có chút an nhiên đến hững hờ giữa đám trẻ háo hức đọc thơ văn ồn ào, có chút lặng lẽ gần như thu cả vào trong dáng vóc nhỏ thó… Ông thuộc về thế hệ mà chúng tôi ngày ấy “kính nhi viễn chi”, chỉ dám chiêm ngưỡng rụt rè mà không dám bỗ bã mở miệng, chỉ nghe ông kể chuyện và ngắm ông, hình dung về ông lái đò mà ông đã tạc lên sống động trong dòng thơ lãng mạn. Hóa ra, thơ vận vào người, nên ông dường như mang thần thái nhân vật của mình, dẫu cho ông cuối đời sống nơi ồn ào phố chợ thị trấn Bình Định! Chẳng phải thế sao, khi những hối hả bon chen bên ngoài không tác động mấy vào dòng cảm xúc của ông, và ông đọc sách, làm thơ, trở về với dòng tứ tuyệt Đường luật cổ kính, mà vẫn đầy mỹ cảm “Cầm chân em – Cầm chân hoa” …
Trở lại với BẾN MY LĂNG, cái bến sông tưởng tượng làm tốn giấy mực của bao thế hệ các nhà phê bình văn học, tôi chợt nhận ra bài thơ này dường như không thích hợp cho lối cảm thụ kinh viện, mà phải để hồn thật bay bổng, thật trong trẻo mới tái hiện được cái không gian bàng bạc ánh trăng đậm chất xứ Đồ Bàn:
Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu
Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách
Ông lái buồn, để gió lén mơn râu…
Ông không muốn run người ra tiếng địch
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao…
Hai khổ thơ đã tạo một không gian đậm chất lãng mạn và thoát tục: bến – thuyền, ông lão – vầng trăng, tất cả đều im lìm tĩnh mịch, phảng phất chất Đường thi phần nào gợi nhớ bến Tầm Dương trong thơ Bạch Cư Dị: “Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt – Một vầng trăng trong vắt lòng sông…” nhưng lại không phải như vậy! Tâm thế lãng mạn in đậm nét hơn khi cái tĩnh lặng mang đến sự cô đơn tuyệt đối, gợi cảm giác trống vắng lan tỏa ngui ngút bao trùm vẻ huyền ảo dưới ánh trăng. Cùng lúc ùa vào một chút lạnh se cô quạnh của bến “nằm không thuyền đợi khách”, một chút tàn phai của “trăng rơi”, bầu trời “đìu hiu, tĩnh mịch, võ vàng” quyện vào thành nỗi buồn đọng lại trong lòng ông lái đò kia. Không biết giữa tứ thơ này của Yến Lan và Hàn Mặc Tử – hai người bạn trong “Bàn thành tứ hữu” và cũng là hai nhà thơ trong “trường thơ Loạn” – có mối liên hệ gì không, khi tôi chợt nhớ câu thơ của Hàn:
Người hóa ra trăng, trăng hóa nước
Lụa là ướt đẫm cả trăng thâu…
Cảnh và người trong hai khổ thơ này của Yến Lan cũng thế! Ông lái đò trong khoảnh khắc “để gió lén mơn râu” cũng là lúc đã muốn tan hòa bay bổng theo cơn gió nhẹ kia lên tận cung Quảng Hàn!
Cái buồn của cảnh xâm nhập vào hồn người, khiến cho công việc “đợi khách” của ông lái đò chẳng qua chỉ là cái cớ mà thôi!
Khổ thứ ba hiện lên là một không gian và thời gian của cảm giác:
Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời nhưng chỉ giãi trăng, trăng
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng…
Bắt đầu từ không gian này, mọi hiện hữu dường như là ảo ảnh, giao hòa cảm xúc với ngoại cảnh, ánh trăng dệt thành đường tơ, nối kết cảm giác ngui ngút của chiều quạnh, cái mênh mông rợn ngợp của đêm buồn… Không gian ấy ta từng gặp trong thơ Xuân Diệu: Sương nương theo trăng ngừng lưng trời – Tương tư nâng lòng lên chơi vơi (Nhị hồ). Không gian trăng của Yến Lan không có cái réo rắt của âm nhạc, mà vẫn cứ ngân nga một âm vọng thẳm sâu chính từ hình ảnh Tơ vương tròi nhưng chỉ giãi trăng, trăng…Để từ đó xuất hiện một bóng hình lữ khách:
Nhưng đêm kia đến một chàng kị mã
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi…
Tiếng gọi đò phá vỡ cái tĩnh lặng của bến sông Trăng – bến My Lăng có thật không? Chàng kị mã – áo ngọc lưu ly và ánh trăng vàng như quyện vào nhau làm ta hình dung chàng như bước ra từ cõi mộng, từ cổ tích hay phảng phất một dáng chinh phu đầy ám ảnh các nhà thơ thời “tiền chiến” như Lưu Trọng Lư, Thế Lữ từng nhắc tới. Nhưng ở thơ Yến Lan, tiếng “gọi đò, gọi đò như hối hả” mới thật sự là một ám ảnh, để chuyển hóa chất thơ từ lãng mạn sang tượng trưng:
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng…
Tôi đã từng đọc hồi ức nhà thơ kể về tuổi thơ bên bến sông Trường Thi quê nhà với ông cậu làm nghề chèo đò, một hồi ức buồn với nỗi đau của đứa bé mất đi người mẹ hiền hậu tảo tần. Phải chăng vì thế tiếng “gọi đò như oán trách, gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng” trong bài thơ như dư vang của cảm giác hụt hẫng bàng hoàng thời thơ ấu? Thực và mộng cứ đan xen trong ánh trăng ma mị, thoát tục tuyệt đối khi ông lão “để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng” để hòa vào những sợi tơ trăng. Nỗi niềm nào đọng lại trong điệp khúc gọi đò, không thể kéo thuyền hồn trở về cùng bến My Lăng, trở về thực tại?
Bài thơ khép lại bằng một hình ảnh đậm chất cổ điển:
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng…
Không hiểu sao khi đọc hai câu thơ này, tôi lại mường tượng ra không gian của những ngôi nhà lá mái đặc trưng của Bình Định, bước vào trong những cánh cửa “bàn pha” theo cách nói của dân xứ Nẫu, người ta thường gặp những bức sơn mài trên vách theo chủ đề “ngư tiều canh mục”. Bức sơn mài có con thuyền chống sào, ngư ông say ngủ thường có đôi câu thơ chữ Hán rất điển hình trong những nhà có người theo đuổi nghiệp bút nghiên khoa cử thời phong kiến, muốn lánh xa cái ồn ào của thế nhân, như lời thơ Cao Bá Quát:
Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu.
( Thế cuộc thăng trầm người chớ hỏi,
Miền sâu khói sóng có làng câu. )
(Tiêu sầu tửu 2)
Có mối liên hệ nào không giữa người cậu lái đò bến Trường Thi – ông lái đò say trăng bến My Lăng và thuyền câu khói sóng trong những bức sơn mài của một thời xưa cũ? Chỉ biết rằng hai câu thơ khép lại BẾN MY LĂNG cũng đã gieo lại trong lòng người yêu thơ một nỗi buồn lan tỏa cùng ánh trăng lạnh, tạc nên hình ảnh bất tử của một bến My Lăng hư ảo thấm đẫm tâm trạng.
Và cũng thật bất chợt, tôi tự hỏi: không biết bây giờ, anh hồn của thi sĩ đang vương vấn cùng ánh trăng bàng bạc, có trở về thăm lại bến Trường Thi, thuyền hồn ông lái đò neo đậu nơi nào ở bến My Lăng?
28.2.2016
T.H.N